Bình tâm nhìn khói ưu phiền thoảng bay

Chuyện trà

Có rất nhiều sự tích, truyền thuyết nói về cây chè và trà. Một số nơi lên tiếng rằng họ là dân tộc phát tích cây chè và biết dùng trà như một thức uống. Nhưng thiết nghĩ điều đó không quan trọng, con người đã tự tìm thấy cho mình một tặng phẩm kỳ diệu từ mẹ tự nhiên.

Trà tại châu Á

Trà thường trồng các vùng đồi núi quanh Hangzhou Trung Hoa, các vùng trà nổi tiếng là Ling Ching và Lung Ding, ngoài ra còn có vùng bảy núi ở Xishuangbanna trồng trà từ triều đại Đường (618-907) nhưng mãi đến triều đại Thanh (1644) trà được đưa vào việc sản xuất. Hiện nay còn loại trà cây cổ thụ từ năm 1700 qua các đời, vùng này trồng loại trà Phổ nhĩ (普洱) lá dày. Nước trà màu hơi đỏ, được xem như một vũ khí tuyệt vời uống để chống lại bệnh có mỡ trong máu.

Ở Ấn Độ vùng núi Darjeeling cách xa Kalutta 600 km trồng các giống trà “Thea Chinensia” được công ty Đông Ấn “East India Company” hoạt động từ năm 1600-1857” lai giống các loại trà năm 1823 tại Assam thành công, thêm loại “Thea assimica”

Ấn Độ trồng hơn 400 loại trà khác nhau, trà nổi tiếng thơm ngon quanh vùng Himalaya trên cao độ 2200 m, các vườn trà trong vùng thung lũng “Steintal” và “Happy Vallytea Estate”

Assam là vùng cao nguyên trên thượng lưu Brahmaputra, có 2000 vườn trà được lai giống khác nhau. Hiện nay xuất cảng trà đứng đầu thế giới là Ấn Độ sau là Sri Lanka. Giống trà Thea assmica, được người Anh, ông Schotte James Taylor mang vào Sri Lanka năm 1849, sau 11 năm phát triển trồng trên cao nguyên Ceylon và Tamilen.

Tại Việt Nam theo sách An Nam Chí Lược ghi “vào tháng 5, năm thứ tám niên hiệu Khai Bảo. Đinh Liễn có tiến cống nhà Tống vàng, lụa, sừng tê, ngà voi và trà thơm”. Theo các tài liệu trên chứng tỏ người Việt đã biết uống và biết chế trà từ lâu. Ngành khảo cổ đã khai quật tại vùng Nông Giang Thanh Hóa tìm thấy được nhiều chén trà, dĩa trà thời gian nầy ngang với đời Tống (960-1279)

Theo Nguyễn Trãi ở Dư Địa Chi, đã kể đến trà Tước Thiệt (trà lưỡi chim sẻ) người ta gọi là trà móc câu thuộc giống trà mi ở vùng Sa Bôi nay là tỉnh Quảng Trị (ngày xưa thuộc Châu Ô, Châu Lý). Người Việt Nam có nghệ thuật ướp trà và uống trà.

Có rất nhiều giống trà trồng hợp với khí hậu địa phương, các nơi trồng trà nổi tiếng như: Phú Thọ, Hòa Bình, Nghệ An, Thái Nguyên, Lai Châu. Cao nguyên Bảo Lộc Lâm Đồng có loại trà mi, hải đường. Có hoa nhỏ thơm dịu, nụ nhỏ, trà ngày nay theo nhu cầu kỹ nghệ sản xuất lai nhiều giống, có 3000 loại trà mi khác nhau trên thế giới.

Theo nghiên cứu các nhà khoa học, trà phát sinh từ 3 loại chính của Đài Loan và Nhật Bản đó là Camellia Japonica, Camellia sasanqua, và Camellia reticulata. Có thể đất nước Việt Nam trải qua chiến tranh, bế môn tỏa cảng. Không được các chuyên gia ngoại quốc đến nghiên cứu, hay trước đó trong thời bị nô lệ các giống trà từ Việt Nam bị lấy đi ?

Trà mi có tên khoa học Camellia chrysantha trong thời gian gần đây người Pháp tìm ra trà mi giống Việt Nam và được nhắc đến trà mi hoa vàng tên Camellia vietnamensis ở Cúc Phương, đẹp hơn trà mi hoa vàng gốc Nhật, hoa ít hơn. loại Camellia baviensis ở núi Ba Vì hương thơm nồng nàn. Trà mi Camellia baviensis đem về trồng thí nghiệm ở đại học Lâm nghiệp Xuân Mai Hà Tây. Hoa lưỡng tính cánh trắng nhụy vàng to nở lâu tàn.

Trà vào Nhật Bản thế kỷ thứ 6 Hòa Thượng Huimeng (638-713) truyền Phật Giáo từ Trung Hoa sang Đại Hàn vào Nhật Bản và phát triển mạnh trong thời Nara Zeit (710-94). Trà du nhập vào cùng giai đoạn trên, nhưng đến thời hoàng đế Shômu thế kỷ thứ 8 trà dùng phổ thông hơn. Kế tiếp qua nhiều triều đại văn hóa phát triển. Thượng phụ Murato Shuko (1422-1502) biến chế trà xanh thường dùng trong các Chùa và các Võ sĩ đạo (Samurai). Đến đời sư phụ Sen-No Rikyu (1522-1591) được nâng lên một nghệ thuật, trở thành nghi thức uống trà khởi đầu tại Daitoku-Ji-Tempel

Các nước Thái Lan, Lào, Java ở Indonesia, Malaysia… cũng trồng trà, nhưng mỗi quốc gia đều có phương pháp trồng trà riêng.

Trà nhập châu Âu

Năm 1610 người Hà Lan mang trà từ Trung Hoa về Âu Châu. Vua Ludwig XIV, Marquise de pompadour, và Goethe là những người uống trà xanh. Nữ hoàng Kathrina von Bragaza (1638-1705) con vua Johanns IV Bồ Đồ Nha (Portugal) cùng đoàn tùy tùng đến Anh Quốc làm lễ thành hôn năm 1665, dâng lễ vật quà cưới đến vua Charle II (1660-1685) trong đó có nửa kilogam trà. Chứng tỏ trà lúc đó rất quý đối với giới quý tộc Âu Châu.

Các quốc gia Ấn Độ, Sri Lanka bị Anh quốc chiếm làm thuộc địa, cách đây 150 năm các thương gia Anh nhập trà về các bờ biển Cornwall, Dorset, Kent chở về cho 2000 đại lý ở London độc quyền bán trà đen tại Âu Châu .

Nhưng đến cuối thế kỷ 19 trà xanh tràn ngập thị trường Âu Châu, nhờ phương tiện lưu thông tiến bộ, thời gian chuyên chở làm cho trà xanh không mất phẩm chất .

Trà nhập Âu Châu bằng đường thủy, trong thời gian nầy những đoàn lữ hành, vượt sa mạc dùng lạc đà chuyên chở trà từ Trung Hoa , Ấn Độ đến bán cho Nga sô.

Trà đến châu Mỹ

Năm 1650 thương thuyền người Hà Lan nhập trà vào New York, thời ấy gọi là Amsterdam mới và trên đường Chatham có nguồn nước ngọt, vào buổi sáng người đàn ông rung chiếc chuông nhỏ rao bán nước “come and get your tea-water!”. Các Tổng thống Hoa kỳ: Lincoln, Roosevelt, Hoover, Kennedy đều uống trà.

Nhà nhập cảng trà, ông Sullivan tại New York, có sáng kiến bỏ trà vào một túi nhỏ bằng lụa cho mỗi tách trà, quảng cáo gửi cho khách hàng uống thử. Từ sáng kiến đó ngày nay người ta biến chế trà trong những túi nhỏ. Người Mỹ có thói quen uống trà xanh nhập cảng từ Trung Hoa. Năm 1904 người Anh Richard Blechynden đến St. Louis trong hội chợ triển lãm về trà. Ông ta quảng cáo trà đen Ấn Độ vì thời tiết nóng, uống trà nóng ra mồ hôi khó chịu, ông bỏ nước đá vào ly trà, uống mùi vị thơm ngon và mát, từ đó mở đầu cho giai đoạn mới, uống trà với nước đá “ice tea”.

Sản xuất trà đi qua các giai đoạn căn bản, hái để lá héo, hấp nước hay sấy qua, đập hay chà phơi khô sàng lọc. Trà đen hay trà xanh cũng đều biến chế từ các loại trà cây có tên khoa học: Camillia Sinensis và Camillia Assamica
Từ trà, thế giới đã hòa quyện với nhau
NGUYỄN QUÝ ĐẠI từ MUNICH - ĐỨC
Bài viết đã được biên tập lại.
Hồi lâu lắm, lúc mình mới lõm bõm viết đôi ba bài cho Tea Garden, hồi đó còn chưa uống, chưa viết về trà Việt nữa cơ, có một người lạ sau khi đọc bài viết về trà ngoại đã comment chỉ một câu mà tràn đầy ý giễu, đại loại bảo rằng mình phải uống nhiều hơn nữa rồi hãy nói. Hồi đó chỉ mới tập tọe thôi, đọc comment ấy thấy phiền lòng nên đã không approve để đưa lên, nhưng thực ra cũng thừa biết mình hiểu chưa đến.

Nói tới đây, chỉ để ngẫm lại vì sao có nhiều bạn trẻ Việt Nam bỏ bao nhiêu tâm huyết muốn lập một nét văn hóa gọi là “trà đạo Việt”, muốn đem trà sen trở thành một bản sắc không thể thiếu được của người Việt Nam. Mình hồi trước chỉ thích trà ngoại, thích những hương vị mới lạ hơn những trà sen trà nhài chân quê xưa cũ, thực đúng là thiếu sót một bề.

Bắt đầu uống trà Việt bởi nhiều lý do, nhưng không biết tự bao giờ, đã thấm cái chất đậm đà, chát đắng, xen lẫn hậu vị ngọt ngào mãi không tan trong cuống họng, đã thấm cái hồn cốt của trà mộc ngon, đã hòa vào dáng những búp trà cuốn xoăn, mở túi ra là mộc trà liền dậy hương thiệt thâm trầm, thiệt mời gọi. Đó chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa trà Việt và trà Âu, cái hồn trà không gợn sóng, cái chất trà thấm đẫm nồng thơm ấy đã khiến trà Việt thật xứng đáng để thế hệ trẻ nâng niu gìn giữ lan truyền, chứ không phải cứ ngồi nhâm nhi trà là công việc của ”các bậc tiền bối” tóc đã hoa sương vậy.

Hôm qua uống trà Shan Tuyết đấy, một bình trà pha thiệt đậm. Uống nhấp đầu tiên liền bị đơ, bị say nắng giống như ngó một anh đẹp trai đi ngang qua đường vậy!

Bởi vì đã lâu, lâu lắm, trừ cái lần uống trà oolong (của Trung Quốc) đêm Trung Thu, mới uống được một bình trà Việt tuyệt vời đến thế. Shan Tuyết Suối Giàng thì đã biết đến từ nảo từ nao rồi, quả thực cách đây một năm đã mua một lần ở siêu thị Sài Gòn Tiếp Thị (một cửa hàng nhỏ chỉ bán đặc sản các miền). Lần đó cố tình đến để mua trà Shan Tuyết qua giới thiệu, chỉ thấy bày bán một bọc ni lông bình thường, nhìn xuyên qua trà bên trong cũng bình thường, nhãn mác chỉ là một mảnh giấy in lồng bên trong, hoang mang mua về pha uống thử thì thấy rất… tầm thường. Lòng đau không kể xiết, chẳng thấy tiếc tiền mà chỉ thấy thất vọng thôi.

Còn lần thứ hai này đến siêu thị đó mua vài thứ, đến lúc tính tiền thì thấy bày ngay đằng sau quầy tính một hộp trà Shan Tuyết, liền cầm lên coi thử. Hộp giấy cứng đẹp, bên ngoài để mấy chữ “Tuyết Sơn Trà”, còn thêm vào “trà sạch”, “hảo hạng”, tò mò mở ra thấy bên trong là gói trà bọc kĩ bằng túi chân không, thấy có chút thiện cảm, ngẫm tới ngẫm lui thôi ta thử đặt niềm tin một lần nữa vậy.

Trưa hôm qua pha ra một bình, cảm giác thì không nói dài dòng, chỉ mấy chữ đắng nơi đầu lưỡi, nồng nàn khoang miệng, đậm đà vị mộc trà tinh khôi, thanh ngọt mãi nơi cuống họng. Ôi viết mấy dòng này mình lại mơ đang ngồi trước bình trà! Chỉ hơi tiếc một chút là trà Shan Tuyết ít hương, bưng chén trà lên phải ngửi kĩ lắm mới nghe thấy!

Shan Tuyết lấy từ cây chè cổ thụ mấy trăm tuổi của người Mông nơi xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, chứ không phải thu hoạch từ đồi chè ngắn ngày mình hay thấy. Búp chè tận ngọn cây ra thật to, mọc trên núi cao quanh năm phủ sương nên khi hái về, búp còn ngậm sương trắng như tuyết, mới gọi là Suối Giàng Shan Tuyết. Hái được búp rất khó khăn, lên tới cây chè phải trèo đèo gian nan, mà không có cách gì leo lên hái được, người Mông phải huấn luyện khỉ trèo lên hái ném vào rổ cho họ, rồi sao rang ngay trên bếp lửa ở núi rừng.

Ngẫm thật, có được một khoảng thời gian nào rảnh rỗi, lặn lội lên núi rừng, xem người Mông họ hái chè, rang chè nơi bếp lửa phảng phất khói sương, thưởng chè loại ngon nhất bằng chính nước con suối nguồn, trắng trong, nguyên lành, đựng trong chén gang thô mộc, thiệt chẳng còn gì hơn.

YU CHAN từ INNERWHITE.COM
Bài viết là tâm sự của tác giả; đã được biên tập lại và lược bớt những ký tự cảm xúc.
Lê Quý Đôn trong sách ” Vân Đài loại ngữ ” (1773) có ghi trong mục IX, Phẩm vật như sau:
” … Cây chè đã có ở mấy ngọn núi Am Thiên, Am Giới và Am Các, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hoá, mọc xanh um đầy rừng, thổ nhân hái lá chè đem về giã nát ra, phơi trong râm, khi khô đem nấu nước uống, tính hơi hàn, uống vào mát tim phổi, giải khát, ngủ ngon. Hoa và nhị chè càng tốt, có hương thơm tự nhiên…”

Năm 1882, các nhà thám hiểm Pháp đã khảo sát về sản xuất và buôn bán chè giữa sông Đà và sông Mê Kông ở miền núi phía Bắc Việt Nam, từ Hà Nội ngược lên cao nguyên Mộc Châu, qua Lai Châu; đến tận Ipang, vùng Xípxoongpảnnả (Vân Nam), nơi có những cây chè đại cổ thụ.

“Hàng ngày những đoàn thồ lớn 100-200 con lừa, chất đầy muối và gạo khi đi và nặng chĩu chè khi về. Ipang nổi tiếng về chất lượng chè đạt mức ngự trà cống nộp cho Hoàng đế Trung Hoa. Loại chè cao cấp này không bán ngoài thị trường; và ai cũng cố giấu lại một phần nhỏ, mặc dù có nguy cơ bị trừng trị nặng nề. Tôi đã trông thấy một nắm chè loại này màu trắng ngà, bao gồm những cánh chè rất nhỏ và rất xoăn. Vùng đất đai của Đèo Văn Trị ở Lai Châu, là hàng xóm láng giềng gần gũi của Ipang, vùng Xíp xoongpảnnả“.

Sau những chuyến khảo sát rừng chè cổ ở tỉnh Hà Giang Việt Nam (1923), và tây nam Trung Quốc (1926), các nhà khoa học Pháp và Hà Lan, đã viết “…những rừng chè, bao giờ cũng mọc bên bờ các con sông lớn, như sông Dương Tử, sông Tsi Kiang ở Trung Quốc, sông Hồng ở Vân Nam và Bắc Kỳ (Việt Nam), sông Mê Kông ở Vân Nam, Thái Lan và Đông Dương, sông Salouen và Irrawađi ở Vân Nam và Mianma, sông Bramapoutrơ ở Assam.“

Năm 1976, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, sau những nghiên cứu về tiến hoá của cây chè, bằng phân tích chất catésin trong chè mọc hoang dại, ở các vùng chè Tứ Xuyên, Vân Nam Trung Quốc, và các vùng chè cổ Việt Nam (Suối Giàng, Nghĩa Lộ, Lạng Sơn, Nghệ An…), đã viết :
Cây chè cổ Việt Nam, tổng hợp các catêchin đơn giản nhiều hơn cây chè Vân Nam…. Từ đó có sơ đồ tiến hoá cây chè thế giới sau đây ”Camellia → Chè Việt Nam → Chè Vân Nam lá to → Chè Trung Quốc → Chè Assam (ấn Độ)”

Tóm lại, đến nay các nhà khoa học thế giới đã xác nhận : Đại thể cây chè phát nguyên từ một vùng sinh thái hình cái quạt, giữa các ngọn đồi Naga, Manipuri và Lushai, dọc theo đường biên giới giữa Assam và Mianma ở phía Tây, ngang qua Trung Quốc ở phía Đông, và theo hướng Nam chạy qua các ngọn đồi của Mianma và Thái Lan vào Việt Nam, trục Tây Đông từ kinh độ 95o đến 120o Đông, trục Bắc Nam từ vĩ đ 29o đến 11o Bắc.

TRATHIENSON.COM
Không biết từ bao giờ hình ảnh của Trà đã in đậm vào cõi nhân gian, hương vị của Trà đã thấm sâu vào trong cuộc sống thường nhật, vị chát rồi ngọt của Trà đã thấm đậm vào tâm thức của bao lớp người trong kiếp nhân sinh. Rồi Trà như cam lộ nhuận thắm cửa thiền sâu lắng, gợi lên khúc đại từ sắc sắc không không.

Trà thường có vị đắng, chát, rồi sau đó lẫn vào một chút ngọt ngào, cũng như cuộc đời ai cũng phải trãi qua bao đắng cay chua chát, nhưng nếu vẫn bền gan vững chí, thì cuối cùng rồi cũng gặt hái được những thành quả ngọt ngào của câu chữ "Khổ tận cam lai" còn nếu như không có một chút gì hồi đáp, thì âu cũng là "duyên số" mà thôi.

Hương vị của Trà hàm chứa đầy đủ các chất liệu hương vị của cuộc đời, cho nên thường thì khi còn niên thiếu rất ít có ai thích uống trà, vì vị của Trà không ngọt ngào như tương lai và mơ ước của những người trẻ tuổi, nhưng khi trãi qua hết thảy mọi xúc cảm thăng trầm vinh nhục, được mất có không của cuộc đời, đến tuổi xế chiều, ngồi thưởng thức một chén trà lại là cơ hội để bạn già ôn lại chuyện xưa, để người đi xa nhắc về những kỷ niệm, để bao cuộc đời bể dâu, thăng trầm trôi nổi nói lại duyên xưa.

Khách phong trần nhìn lại cuộc đời của mình, để rồi ăn năng hay tỉnh thức, hoặc giả tự mình vui với chính sự thành công của mình, hay tự an ủi mình trong những gì không được may mắn hay thất bại, người trong nhân gian thấm sâu vị đắng chát hay ngọt ngào của trà là như vậy đó, thưởng thức trà, hương trà trong được mất của thế nhân.

Trà pha với nước như người với cuộc đời, khi thả trà vào nước lá trà lúc nào cũng trôi nổi bềnh bồng, chẳng khác gì ta khi bước vào đường đời nổi trôi chưa có nơi cố định, hoặc giả công việc thời thế chưa đến lúc hanh thông. Rồi màu của trà vị của trà, dần dần đậm lại, như màu sắc cuộc đời trãi qua những thăng trầm thêm kinh nghiệm sống trong ta, vị trà đắng rồi lại ngọt, mách bảo cho ta hương vị của cuộc đời không bao giờ đắng mãi và cũng không có ngọt bùi khi không có sự nổ lực của chính tự thân.

Trà khi pha nổi rồi chìm, đắng chát ngọt ngào không khác cuộc đời được mất hơn thua, vinh nhục, cay đắng, trà vẫn thế không thay hương vị, đời vẫn vậy chưa từng đổi thay, trà vị có chát hay ngọt cũng chỉ có người thưởng thức mới biết được, đời vui hay buồn, vinh hay nhục cũng chỉ có người trãi qua rồi mới cảm nhận được thôi.

Trà được xưng là Trà Đạo vì theo quan niệm của cổ nhân trong trà có ba điều đạo lý.
Điều thứ nhất: trà có vị đắng cay như cuộc đời.
Điều thứ hai: hương của trà thơm như ái tình của cuộc sống.
Điều thứ ba: đắng rồi lại ngọt, như cuộc khổ lại cam qua, trong trà gói trọn bao nhiêu triết lý của cuộc đời, biểu hiện hết thảy ngọn ngành cảnh giới của nhân sanh.

Cuộc đời chẳng khác gì trà khi trãi qua ba giai đoạn, nếu được rèn dũa tôi luyện thì phần còn lại đó là trà sẽ là vị ngọt, còn cuộc đời sẽ là sự thành công hay trọn đầy bao ước nguyện.

Trà được người kính trọng bởi vì trà có đầy đủ những gì người muốn có, theo kinh nghiệm của người xưa uống trà có thể huân tập được 10 đức tính như; tán u uất, dưỡng sinh, dưỡng khí, trừ bịnh, lễ giáo, biểu kính, thưởng vị, dưỡng thân, hành đạo, nhã chí. Vì vậy trà được đưa vào Thiền môn vì những tính chất đặc hữu của mình, trãi qua sự vận dụng của Thiền định trong trà, đạo của trà thâm nhập vào thế giới của Thiền tư thành Thiền Trà.

Trà vào cửa Thiền với tự thân vốn không có sự phân biệt quý hay tiện, cho nên khi thể nhập vào đạo Thiền đệ nhất nghĩa với "Phật tánh bình đẳng không nam bắc". Khi thưởng thức trà tâm phải tịnh để cảm nhận được hương vị của trà, ý niệm sống trong hiện tại của thiền lắng đọng trong từng làn hương thoảng của trà. Nếu ngộ được niệm tịnh trong trà, tinh thần của trà, ý chân của trà, thì người uống trà cùng Thiền sư trong một cảnh giới, không còn niệm nào sai khác "Bổn lai vô nhất vật" thì còn việc gì "hà xứ nhạ trần ai".

Nói đến trà ta liền chợt nghĩ đến hình ảnh của cuộc sống thường ngày, việc uống chén trà dường như đã quen thuộc lắm, dùng ý niệm của nhị đế để hiểu trà thì trà thuộc về tục đế, thế giới trần gian, còn thiền thì lại không có lời thắc mắc là tục hay chân, là trần hay cảnh, chỉ có một niệm hiện tiền, uống trà và cũng chưa bao giờ nhớ hay quên, bởi vì Trà chưa từng rời bỏ Thiền một bước vì "Trà tức là lìa ngôn từ, hết chư tướng, ly tứ cú, tuyệt thị phi", nên trà chỉ còn lại nguyên ý là đệ nhất nghĩa đế mà thôi.

Người thế gian uống trà trong niệm "nhàn hạ thanh cao", kẻ học Phật uống trà trong liễu ngộ pháp "đệ nhất nghĩa đế ". Chấp có chấp không, hay tất cả đều không hay có, rồi chẳng có Thiền cũng không có cảnh trần gian, nếu như vậy, thì pháp giải thoát không còn cách nào để tự mình chứng ngộ, và cảnh của cuộc đời không có gì để nhàn hạ thanh cao.

Người uống trà trong tâm niệm tục đế, thì trong trà không có phẩm chất của thiền tư, nhưng nếu lại nhất niệm hướng trà về với chân đế, thì trà thật là vô vị, không còn ngọt ngào hương vị của nhân gian. Trà và Thiền phải là một vị, như câu "Nhị đế dung thông" trà thế gian hay trà thiền cảnh thì cũng viên tròn trong ý "Chân tục không hai", nếu có thể dùng được tâm và ý này để thưởng thức trà, thì đây là người biết uống trà vậy.

Trà hiện "Bình thường tâm" là trà phổ biến khắp các thứ tầng của cuộc sống, cũng là thú vui tao nhã của cuộc đời, nhưng là mang theo trong đó một ý niệm dung nhập vào cảnh Thiền, từ tục đạt đến chân, từ sắc đến vô sắc, thưởng thức trà như vậy thật là đang tu tập thiền định và đang hành trì một trong vô lượng pháp môn tu vậy. Cho nên Lục Tổ Huệ Năng nói: "Phật Pháp tại thế gian, không lìa thế gian giác, lìa thế gian để tìm đến Bồ đề, cũng không khác đi tìm sừng của con thỏ vậy.".

Thiền sư đem trà cúng dường Phật, với tâm trọn thành trong niệm cúng dường cảm ân, lấy trà để mời khách là nguyện niệm lân mẫn cúng dường, hai pháp cúng dường, nhưng chỉ trong một niệm hoan hỷ, Phật hay chúng sanh cũng chỉ trong tâm tâm bình đẳng. Lấy trà để cúng dường, ý diễn trà cũng là sắc thân, dùng trà để bổ trợ cho sắc thân đầy đủ thắng duyên tu hành thành Phật. Trong bài Ẩm Trà Ca của Thầy Hiểu Nhiên đời Đường có câu: "uống trà một ngụm điều dứt hôn trầm, tinh thần sảng khoái mãn trần gian, uống thêm ngụm nữa tâm thanh ý tịnh thần tự tại, bổng thấy lòng mình mát rượi như hạt mưa bay, đang sái gội trần gian".

Trà Thiền chỉ trong chén trà mà ta đang thưởng thức, đây là một câu ngạn ngữ trong cửa Thiền khi nói đến đạo của Trà và Thiền. Thiền sư uống trà, trà trở thành "Thiền", thế nhân uống trà, trà trở thành "Lễ", lễ trong ý kính, Thiền trong trong niệm tịnh, kính và tịnh hợp nhất thành tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh rồi trần cảnh không hai, thế gian, cõi thiền là một, Thiền sư là khách, khách cũng là thiền, như trà chỉ một vị, khách thiền cảm nhận như nhau, không sai không khác, như vậy là "Trà Thiền một vị, Tăng Tục không hai".



THÍCH TÂM MÃN từ CHUAMINHTHANH.COM
Ngoài những không gian chính yếu như bếp núc, phòng ngủ, tiếp khách… không gian ẩm thực trong ngôi nhà Việt xưa nay còn tồn tại hình thức thưởng trà (nơi uống trà, nói chuyện, thư giãn vào buổi sớm hoặc chiều tối) mang đặc trưng văn hóa Việt rất riêng mà cuộc sống hiện đại, ngôi nhà hiện đại nhiều khi bỏ qua một cách đáng tiếc. Thực ra, góc thưởng trà là một vị trí giao hòa âm dương, tĩnh động khá linh hoạt và đem lại nhiều ích lợi về gia tăng đáng kể sinh khí cho nội thất, nếu biết khéo kết hợp hài hòa.

Khác với Nhật Bản, cách thưởng thức trà và góc thưởng trà của Việt Nam lại hướng đến sự gần gũi giản dị, tinh tế và lược bỏ tối đa cái rườm rà. Dân Việt uống trà không cầu kỳ vào ra trà thất, một ấm trà pha sớm mùa đông, một chén trà được sư thầy mời bên hiên chùa, tách trà qua hàng xóm giao đãi thân tình, đơn giản nhưng khá đủ đầy làm nên nét đẹp văn hóa, xem trọng các mối quan hệ giao hòa với tự nhiên và con người.

Tùy theo từng gia đình, cấu trúc cụ thể mà vị trí góc thưởng trà có thể cố định hoặc không. Mưa thuận gió hòa thì ngồi bên hiên, trong sân, nơi giếng trời có mái dù che, chòi nghỉ nhẹ, ung dung thoải mái. Còn khi mưa tạt gió hắt oi bức khó chịu thì lùi vào bên trong, cạnh bàn thờ gia tiên, kết hợp bàn ăn gia đình hay bàn tiếp khách là vị trí lý tưởng để thưởng trà. Chính tính linh hoạt này khiến góc thưởng trà Việt không cố định hình thức, không bị đóng khung trong trà thất, đồng thời tạo ra một không gian mang tính nghỉ ngơi có kèm theo ẩm thực. Tiêu chí phong thủy cơ bản nhất là cần gắn kết góc thưởng trà với một khoảng thiên nhiên (nhìn ra sân vườn, hồ cảnh) hoặc nhân tạo (tranh ảnh, tủ trưng bày…), mang tính Thổ trung hòa là chính (hình 2). Một số gia đình kết hợp nơi trà đàm với phòng sinh hoạt chung hoặc phòng khách, nhà khác lại sử dụng hàng hiên hoặc sân trong, thậm chí có khi là một khoảng ban-công hay hành lang nối giữa các phòng. Dù bố trí tại đâu, không gian trà đàm cũng cần giữ tính trung dung vừa phải, đơn giản là tốt nhất.
Người Việt uống trà luôn có bạn. Bạn đối ẩm hữu hình và bạn vô hình, đó là cỏ cây, tiếng chim hót hay cành sen mới nở. Có 3 đặc tính không gian trà Việt cần xác lập để bố trí phù hợp, đó là:

- Không gian mở: mở của lòng người và mở của cung cách đón tiếp, tức là có thể tùy nghi thay đổi đem lại cấu trúc linh hoạt theo tinh thần kiến trúc hiện đại: vật liệu xanh, tiết kiệm và thuần chất.

- Không gian tĩnh: uống trà không thể  ồn ào, không thể vừa hát karaoke, nhảy theo hip hop vừa nhấp ngụm trà. Chẳng cần bít bùng trà thất thâm nghiêm, nhưng phải giữ được chút lặng lẽ, tinh sạch cho tâm hồn.

- Không gian mộc mạc: chỉ với những vật liệu thân thiện như tre-gỗ-gạch-gốm thì vẫn đủ độ ấm nồng hơn rất nhiều những chất liệu hiện đại mà lạnh. Chẳng cần tinh xảo chăm chút như những đầu cột khung cửa, mà cũng không đến mức quá thâm u hoài niệm hay rực rỡ sắc màu trang trí lòe loẹt. Một bàn thấp, ghế nhẹ, cửa rộng, trần cao, ánh sáng ít mà chắt lọc, và không thể thiếu ánh sáng tự nhiên, gió tự nhiên, nắng tự nhiên. Nếu trời trở lạnh, đêm ùa tới, thì những ngọn đèn lồng, ánh sáng vàng ít trang điểm cũng đủ sức làm tăng phần ấm áp rồi (hình 3).

Từ một góc thưởng trà Việt giản dị, có thể thấy yếu tố phong thủy trong không gian Việt thiên về sự thiết thực, tiết giảm và thân thiện, khác hẳn với các bài trí xa hoa và mê tín. Giao hòa Thiên – Địa – Nhân, đó là đích đến của nghệ thuật bài trí nhà cửa hợp trời đất, hợp lòng người.


Từ THANHNIEN.COM.VN
Văn hóa ẩm thực nảy sinh đồng thời với sự xuất hiện của loài người và ngày càng phong phú theo sự phát triển của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Từ xưa đến nay, loài người đã xây dựng, tích luỹ, bồi đắp được nhiều tri thức sâu sắc, đa dạng và độc đáo chung quanh chuyện ăn uống thường ngày. Ðặc biệt, nghệ thuật ẩm thực của người Á Đông, lấy sự quân bình âm dương và hoà hợp thiên nhiên làm nền móng, trong đó nghệ thuật thưởng trà là một trong những nghệ thuật ẩm thủy hàng đầu.

Ở Việt Nam, tục uống trà có từ rất lâu đời. Người Việt biết đến trà sớm hơn so với các nước. Theo một khảo cứu của Ủy ban Khoa học Xã hội, người ta đã tìm thấy những dấu tích của lá và cây chè hóa thạch ở vùng đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ). Xa hơn nữa, họ còn nghi ngờ cây chè đã có từ thời kỳ đồ đá sơn vi (văn hóa Hòa Bình). Cho đến nay, ở vùng Suối Giàng (Văn Chấn – Nghĩa Lộ – Yên Bái), trên độ cao 1.000 m so với mặt biển, có một rừng chè hoang khoảng 40.000 cây chè dại, trong đó có một cây chè cổ thụ lớn nhất, ba người ôm không xuể. Ðã có những kết luận khoa học trong và ngoài nước khẳng định rằng: Việt Nam là một trong những “chiếc nôi” cổ nhất của cây chè thế giới.

Tục uống trà ở Việt Nam rất phong phú. Từ cách uống cầu kỳ cổ xưa đến cách uống bình dân, hiện đại. Thường một bộ đồ trà có bốn chén quân, một chén tống để chuyên trà. Nước pha trà phải là thứ nước mưa trong hoặc thứ sương đọng trên lá sen mà người đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sớm. Phương ngôn còn lưu truyền những lời dạy về cách uống trà như “trà dư, tửu hậu”, “rượu ngâm nga, trà liền tay”, “Bán dạ tam bôi tửu. Bình minh nhất trản trà”…

Nói đến nghệ thuật thưởng trà Việt Nam là người ta lại nhắc đến thú uống trà của người Hà Nội. Vẻ thanh lịch, trang nhã, sự cầu kỳ trong ẩm thực của người Hà Nội đã nâng tính thẩm mỹ của chén trà lên một trình độ rất cao. Nếu người dân vùng khác thích uống trà “mộc” (trà không ướp hương) thì nhiều gia đình Hà Nội xưa lại thích uống trà ướp sen, trà nhài, trà ngâu, trà cúc, trà sói… Ðặc biệt trà sen là một thứ trà quý chỉ dùng để tiếp khách tri âm hoặc làm quà biếu. Trà sen tựa thứ trà mạn Hà Giang, mỗi cân ướp từ 1000 – 1200 bông sen Tây Hồ và phải là thứ sen chưa bóc cánh với “độ” hương cao nhất. Trà sen loại đặc biệt giá lúc nào cũng ở mức 2-3 chỉ Vàng một cân. Ở Hà Nội còn khoảng 30 gia đình làm loại trà này.

Trong các làng xã, chúng ta uống chè xanh; từ những lá chè tươi, rửa sạch, hãm trong nước sôi sủi tăm cá, nước trà thơm dịu, xanh ngắt. Uống trà bằng bát sành, hút thuốc lào và nếu sang hơn, có thêm phong chè Lam hoặc kẹo Cu đơ xứ Nghệ. Người Nghệ An còn có tục uống "chè gay", hái cả cảnh lẫn lá hãm trong nước sôi. Trà được ủ nóng trên bếp than, lúc khát, chắt nước trong nồi ra uống.

Người Việt Nam hiện nay uống chủ yếu là trà xanh sơ chế bằng phương pháp thủ công mà người đời thường gọi là “trà mộc”,”trà sao suốt” hay “trà móc câu”. Gọi là “trà móc câu” vì cánh trà sao quăn giống hình chiếc móc câu. Song người sành trà lại bảo phải gọi là “trà mốc cau” mới đúng vì chè tròn cánh, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây cau. Còn “trà sao suốt” là phương pháp sao trà bằng nhiệt, tách nước (giảm bớt thủy phần) bằng tay với ngọn lửa liên tục, đều đặn, không to quá, không nhỏ quá. Người ta sao trà bằng chảo gang. Những thứ trà ngon thường được gọi chung là “chè Thái”. Nhưng thực ra, trà bán ở thị trường hiện nay có rất nhiều nguồn gốc: trà Tân Cương, trà Mạn Hà Giang, trà Vị Xuyên, trà Lục Yên Bái, trà Suối Giàng…. Song trà dù được chế biến, được uống bằng cách nào (độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm) vẫn biểu thị một thứ “đạo”. ” Ðạo trà” Việt Nam thật trân trọng ở cách dâng mời đầy ngụ ý. Dù lòng vui hay buồn, dù trời mưa hay nắng, khách cũng không thể từ chối một ly trà nóng khi chủ nhà trân trọng dâng mời bằng hai tay. Dâng trà đã là một ứng xử văn hóa phổ quát biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Uống trà cũng là một ứng xử văn hóa. Uống từng ngụm nhỏ để thưởng thức hết cái thơm ngọt của trà và cảm nhận hơi ấm của chén trà đủ nóng bàn tay ta khi mùa đông lạnh giá. Uống để đáp lại lòng mến khách của người dâng trà, để bắt đầu một tâm sự, một nỗi niềm, để bàn chuyện gia đình, xã hội, nhân tình thế thái, để cảm thấy trong trà có cả hương vị của trời đất, cỏ cây. Dâng trà và dùng trà cũng là một biểu hiện phong độ văn hóa, sự thanh cao, tình tri âm, tri kỷ, lòng mong muốn hoà hợp và xóa đi những đố kỵ, hận thù. Uống trà là một cách biểu thị mức độ tình cảm và học vấn người đối thoại.

Những khía cạnh của văn hóa ứng xử Việt Nam rất phong phú và biểu hiện tập trung nhất ở tục uống trà. Người ta có thể uống trà một cách im lặng và nhiều khi sự im lặng đã ẩn chứa nhiều điều. Người ta có thể xét đoán tâm lý người đối thoại khi dùng trà. Khi đã trở thành một cái thú thì người ta không thể quên nó, vì trà đồng nghĩa với sự sảng khoái, tỉnh táo, tĩnh tâm để mưu điều thiện, tránh điều ác. Tuy nhiên, trà cũng rất cần sự tiết độ. Người Việt Nam không uống nhiều, uống đặc và cũng không thể uống liên tục suốt ngày. Vì trà là một triết học về sự tế nhị, nhạy cảm, thanh tao, sự suy ngẫm và óc tỉnh táo. Trà là một sự giao hòa với thiên nhiên, sự ứng xử hợp lý với thời gian, sự tiếp cận đầy nhân tính với không gian, với môi trường và con người Việt Nam luôn tồn tại một nền văn hóa trà thanh lịch và tỏa hương.


Từ THIENSONTRA.COM